Địa lý Triệu Phong

Vị trí địa lý

Huyện Triệu Phong nằm về phía đông nam của tỉnh, có vị trí địa lý:

Huyện Triệu Phong nằm về phía đông nam của tỉnh và trải ngang như một tấm khăn chùng từ nơi giáp giới với hai huyện Cam LộĐakrông ra đến Biển Đông; chiều dài trên đất liền từ tây sang Đông hơn 30 km, chiều rộng ở vùng đồng bằng từ 10 đến 13 km. Diện tích tự nhiên của huyện là 354,92 km², dân số của huyện tính đến tháng 4/2009 là 108.657 người.[1]

Thị trấn Ái Tử là trung tâm kinh tế - văn hoá xã hội của huyện cách thành phố Đông Hà 7 km về phía nam và thị xã Quảng Trị 6 km về phía bắc.Triệu Phong là một huyện chủ yếu gồm đồng bằng ven biển với một ít gò đồi thấp thuộc các xã Triệu ThượngTriệu Ái ở phía tây, địa hình phía đông huyện là cồn cát, đụn cát trắng. Đoạn cuối của sông Thạch Hãn chảy ra cửa biển Cửa Việt nằm trên địa bàn huyện.

Điều kiện tự nhiên

Địa hình

Địa hình huyện Triệu Phong nghiêng từ Tây sang Đông, được chia 3 vùng rõ rệt: gò đồi, đồng bằng và vùng cát ven biển:

  • Vùng gò đồi chiếm 51,08% diện tích đất tự nhiên của huyện gồm các xã Triệu Thượng, Triệu Ái và một phần của xã Triệu Giang. Đây là nơi phát triển các loại cây công nghiệp, cây lấy gỗ kết hợp trồng cây hoa màu, cây lương thực và phát triển kinh tế trang trại.
  • Vùng đồng bằng rộng từ 7 đến 8 km với diện tích chiếm 38,39% diện tích đất tự nhiên gồm các xã: Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Đông, Triệu Hòa, Triệu Đại, Triệu Độ, Triệu Thuận, Triệu Phước, Triệu Trạch, Triệu Sơn, Triệu Trung, Triệu Tài, một phần của xã Triệu Giang và thị trấn Ái Tử.
  • Phía Đông huyện là một dãi cát dài chạy theo bờ biển suốt từ Bắc chí Nam dài trên 15 km, rộng từ 4 đến 4,5 km với diện tích chiếm 10,53% đất tự nhiên của huyện gồm các xã Triệu Lăng, Triệu Vân, Triệu An. Đây là một phần của dãi tiểu Trường Sa. Có bờ biển dài 18 km. Ngư trường đánh bắt tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như mực, ghẹ, tôm, các loài cá phục vụ xuất khẩu.[2]

Khí hậu

Huyện Triệu Phong nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa được phân thành 2 mùa: Mùa mưa rét và mùa khô nóng.

Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 đến 25 °C, nhưng lại có biên độ dao động khá lớn (tháng cao nhất 35–39 °C, tháng thấp nhất 12–13 °C)Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.500–2.700mm, cao hơn mức trung bình của cả nước và phân bố không đều, tập trung chủ yếu là từ tháng 9 đến tháng 12 nên thường dễ gây hạn hán và lũ lụt.

Chất đất vùng đồng bằng phì nhiêu, rất tiện lợi cho việc canh tác và đưa các loài cây trồng mới có năng suất chất lượng cao vào sản xuất; hứa hẹn một cuộc sống bình yên, no ấm; xóm làng xanh tươi, trù phú.